Cắt đường rò vào đường thở, lập lại lưu thông chức năng của thực quản.
- Xử trí ban đầu:
+ Đặt bệnh nhân nằm đầu cao để tránh trào ngược dịch dạ dày qua lỗ rò thực quản khí quản vào phổi gây viêm phổi do hóa chất.
+ Đặt ống thông đầu trên, hút cách quãng dich ứ đọng.
+ Giữ ấm.
+ Siêu âm tim.
- Hồi sức trước mổ: Cho bệnh nhân thở oxy qua mặt nạ hoặc đặt ống nội khí quản nếu suy hô hấp nặng. Cần lưu ý không thông khí quá mức vì có nguy cơ làm dãn dạ dày do khí đi qua lỗ rò khí - thực quản.
+ Cấy dịch hầu họng trước khi dùng kháng sinh.
+ Duy trì thân nhiệt.
+ Điều chỉnh thăng bằng kiềm toan.
+ Bồi phụ nước điện giải.
+ Tiêm vitamin K.
- Tư thế bệnh nhân nằm nghiêng bên trái, có độn dưới ngực tương ứng.
- Mở ngực theo đường sau bên, qua gian sườn 3 - 4 bên phải.
- Bộc lộ khoang ngoài màng phổi.
- Đánh giá thương tổn đầu dưới, đầu trên.
- Cắt rời và khâu lỗ rò thực quản - khí quản.
- Nối hai đầu thực quản tận - tận, mũi rời.
- Một số kỹ thuật cho các trường hợp có hai đầu thực quản quá xa nhau:
+ Kỹ thuật nong dần đầu trên thực quản được Howard năm 1965 và Young tiếp tục phát triển năm 1967. Các tác giả dùng một ống thông đặt qua miệng vào đầu trên thực quản nong đầu trên thực quản hàng ngày hoặc 2 ngày 1 lần để đẩy đầu trên thực quản xuống thấp dần đến lúc có thể tiến hành khâu nối hai đầu thực quản với nhau (khoảng tuần thứ 6 - 12).
+ Kỹ thuật mở cơ đầu trên thực quản theo vòng tròn để làm dài thực quản được Livaditis đề xuất năm 1972.
+ Kỹ thuật tịnh tiến dần đầu trên thực quản được Ken Kimura thực hiện năm 1994. Trong kỹ thuật này, đầu trên thực quản được giải phóng và mở thông ra ngoài da cổ. Cứ 2 - 3 tuần, đầu trên thực quản lại được giải phóng và chuyển dần xuống thành ngực cho đến khi có thể nối được trực tiếp với dầu dưới.
+ Kỹ thuật khâu và kéo 2 đầu thực quản lại gần nhau trước khi nối hai đầu thực quản với nhau được Folker đề xuất năm 1997. Kỹ thuật được thực hiện bằng cách đặt nhiều mũi khâu vào 2 đầu thực quản. Các sợi chỉ khâu được để ở ngoài thành ngực và được kéo dần cho đến khi 2 đầu thực quản sát vào nhau.
Năm 2002 Bax và Rothenberg cùng lúc đã công bố kết quả đầu tiên điều trị TEO THỰC QUẢN bằng nội soi lồng ngực.
Khi hai đầu thực quản quá xa nhau không thể nối trực tiếp hai đầu với nhau có thể tiến hành bằng dạ dày, đại tràng hay tiểu tràng thay thế thực quản.
- Tỷ lệ thành công trong phẫu thuật điều trị TEO THỰC QUẢN đã không ngừng tăng cao theo thời gian. Theo Robert tỷ lệ tử vong vào năm 1955 là 33%. Tonz công bố tỷ lệ tử vong teo thực quản là 19,6% từ 1981 đến 1995. Tỷ lệ sống của teo thực quản tại Hà Lan báo cáo năm 2005 là 91%. Tỷ lệ sống theo báo cáo đa trung tâm tại Pháp năm 2013 là 95%. Tỷ lệ tử vong do teo thực quản tại các nước đang phát triển còn cao. Tỷ lệ tử vong tại Iran báo cáo năm 2012 là 56%, tại Malaysia năm 2013 là 23%.
- Biến chứng: hẹp miệng nối đến 50% cần được nong. Trào ngược dạ dày - thực quản có 47%. Rò khí - thực quản tái phát chiếm 10%. Mềm sụn khí quản chiếm 20%. Biến dạng lồng ngực....
Chẩn đoán trước sinh để theo dõi, đánh giá sớm, dự phòng tình trạng nặng do viêm phổi và theo dõi tốt sau mổ.
Nguồn tin: Hướng dẫn chẩn đoán và điều trị bệnh trẻ em 2018 - Bệnh viện Nhi trung ương
Các phẫu thuật viên nhi khoa có nhiệm vụ khám, phát hiện và điều trị các bệnh lý cần phải phẫu thuật cho đối tượng trẻ em. Website mong muốn cung cấp một phần nhỏ kiến thức vê lĩnh vực ngoại nhi cho bố mẹ và người chăm sóc trẻ, cũng như góp thêm ý kiến cho các nhân viên y tế thuộc chuyên ngành khác....